Đây là kỹ thuật xạ trị tiên tiến hiện đang được sử dụng rộng rãi tại các nước phát triển châu Âu hay châu Mỹ, nó cho phép người thầy thuốc hướng các chùm tia bức xạ một cách chính xác và nhiều nhất vào khối u, trong khi đó các cơ quan cần bảo vệ và các cơ quan lành chung quanh lại nhận liều bức xạ ít nhất và được bảo vệ tối ưu nhất. Việc sử dụng tia xạ để điều trị đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử y học. Cùng với lợi ích điều trị thì các tác dụng ngoại ý của tia xạ lên các mô lành cũng là một vấn đề nan giải cho các nhà lâm sàng.
Những bệnh nhân được xạ trị có thể được kéo dài thêm nhưng chất lượng cuộc sống thì có thể bị giảm đi do các tác dụng không mong muốn của tia xạ. Kỹ thuật IMRT ra đời là góp phần giải quyết được khó khăn cho vấn đề này.
Đối với ung thư thực quản hay các khối u ác tính ở vùng trung thất... thường có những khó khăn trong việc xạ trị vì nhiều cơ quan dễ bị ảnh hưởng bởi bức xạ khi tiến hành xạ trị. Nhiều biến chứng có thể xảy ra vì rất khó tránh các cơ quan lân cận nếu chúng ta sử dụng các kỹ huật xạ trị kinh điển như máy xạ trị Co-60, máy xạ trị gia tốc tuyến tính (LINAC) với kỹ thuật 3D. Do vậy kỹ thuật xạ trị điều biến lièu (IMRT) là một lựa chọn tối ưu cho nhiều bệnh nhân ung thư thực quản.
Từ tháng 9 năm 2008 đến tháng 10 năm 2009 40 bệnh nhân ung thư thực quản bằng phương pháp điều trị ung thư thực quản bằng xạ trị điều biến liều IMRT cho thấy : tuổi thấp nhất 24, tuổi cao nhất 87, tuổi trung bình 56,2. tỷ lệ nam/nữ 3/1. Triệu chứng hay gặp là nuốt nghẹn 86%, sút cân 92%, 6% bệnh nhân biểu hiện khó thở do khối u xâm lấn, chèn ép khí quản. di căn hạch 43%, di căn phổi 12%, di căn xương 8%, soi thực quản phát hiện 56% khối u ở thực quản ngực, 36% thực quản cổ, 8% ở thực quản bụng. Hay gặp nhất là ung thư biểu mô vảy 82%, ung thư biểu mô tuyến 18%. 80% ung thư dạng sùi, 14% dạng loét, 6% khối u dạng thâm nhiễm. Trong 40 trường hợp đến với chúng tôi đều ở giai đoạn III, IV. 24% xạ trị tiền phẫu sau đó phẫu thuật, 76% xạ trị triệt căn kết hợp với hoá chất bổ trợ. Đánh giá kết quả sau xạ trị điều biến liều IMRT : 92% bệnh nhân nuốt trở lại bình thường, 8% phải mở thông dạ dày, 70% u đáp ứng hoàn toàn, 24% u đáp ứng 1 phần, 6% khối u không đáp ứng. 68% hạch tan hết sau xạ, 28% hạch còn lại xơ cứng, 4% hạch vẫn tiên triển to lên gây chèn ép. Không gặp trường hợp nào rò thực quản khí quản sau xạ, không có trường hợp nào viêm da sau tia.
Tóm lại ung thư thực quản là bệnh lý thường gặp, bệnh nhân đến viện chủ yếu nuốt nghẹn, khi bệnh đã ở giai đoạn muộn. Bệnh đáp ứng tương đối tốt với hoá xạ trị đồng thời, đặc biệt xạ trị điều biến liều IMRT đã mang lại hiệu quả điều trị, ít biến chứng, cải thiện tốt chất lượng sống, tăng thời gian sống thêm cho bệnh nhân. Các chẩn đoán ung thư thực quản sớm với các cách mà bác sĩ thường sử dụng
Tóm lại ung thư thực quản là bệnh lý thường gặp, bệnh nhân đến viện chủ yếu nuốt nghẹn, khi bệnh đã ở giai đoạn muộn. Bệnh đáp ứng tương đối tốt với hoá xạ trị đồng thời, đặc biệt xạ trị điều biến liều IMRT đã mang lại hiệu quả điều trị, ít biến chứng, cải thiện tốt chất lượng sống, tăng thời gian sống thêm cho bệnh nhân. Các chẩn đoán ung thư thực quản sớm với các cách mà bác sĩ thường sử dụng