Kỹ thuật hóa tắc mạch với hạt vi cầu điều trị ung thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG). Đây là một phương pháp điều trị UTBMTBG mới được thực hiện và công bố gần đây tại các nước Âu Mỹ và lần đầu tiên đưa vào ứng dụng ở nước ta.
Phương pháp hóa tắc mạch truyền thống có những hạn chế nhất định, đó là tỷ lệ hoại tử hoàn toàn khối u thấp, tác dụng phụ và biến chứng sau điều trị khá nặng nề và để giữ vững kết quả thì phải điều trị nhắc lại nhiều lần. Vì thế, chúng tôi quyết tâm ứng dụng những kỹ thuật hóa tắc mạch mới được thực hiện và công bố gần đây tại các nước Âu Mỹ, đó là kỹ thuật hóa tắc mạch với hạt vi cầu để điều trị bệnh UTBMTG – một bệnh đang rất phổ biến tại Việt Nam”.
điều trị UTBMTBG bằng phương pháp hóa tắc mạch với hạt vi cầu DC Beads (DCB). Sử dụng hạt DCB với 2 loại kích cỡ: 1ml loại hạt đường kính 100 – 300 micromet và 1ml loại hạt đường kính 500 – 700 micromet. Mỗi loại kích cỡ hạt được tải với 37,5mg doxorubicin (hóa chất chống ung thư). Thời gian tải 60 phút cho loại kích cỡ nhỏ và 90 phút cho loại kích cỡ lớn… Sau can thiệp, bệnh nhân chỉ nằm viện 5 ngày và xuất viện trong tình trạng sức khỏe tốt, ăn ngủ bình thường, không sốt, hết đau vùng gan, men gan gần như bình thường và hiện nay vẫn có thể chơi thể thao hàng ngày. Đây là bệnh nhân đầu tiên được can thiệp bằng phương pháp này và đáp ứng điều trị tốt.
Hiện nay, điều trị ung thư gan tại một số nước châu Âu và châu Á đã công nhận kỹ thuật hóa tắc mạch vi cầu là phương pháp ưu việt, hiệu quả cao và có khoảng trên 30% số bệnh nhân UTBMTBG được điều trị theo phương pháp này.
Hạt vi cầu DCB là hạt hình cầu, có tính mềm, đàn hồi được bảo quản dưới dạng dung dịch phosphat, cho phép duy trì nồng độ thuốc ổn định trong khối u, đồng thời giảm nồng độ thuốc khuếch tán ra tuần hoàn ngoại vi. Hạt DCB là một dạng hạt vi cầu được thiết kế đặc hiệu cho kỹ thuật hóa tắc mạch, có thể được chuyển tải cùng với hóa chất chống ung thư như doxorubicin. Sự gắn kết và phóng thích hóa chất được thực hiện theo cơ chế trao đổi ion: hạt DCB mang điện tích âm còn hóa chất chống ung thư mang điện tích dương nên khi trộn lẫn với nhau chúng sẽ được gắn kết chặt chẽ
Khi đưa vào trong khối u (môi trường plasma giàu điện tích dương) thì hóa chất được phóng thích từ từ theo cơ chế cạnh tranh trao đổi ion. Chính vì thế, hóa chất trong khối u được duy trì ở nồng độ cao và kéo dài tới 14 ngày sau điều trị can thiệp. Như vậy, khi nồng độ hóa chất trong khối u càng cao và kéo dài thì khả năng diệt tế bào ung thư càng chắc chắn và mạnh mẽ. Bản thân hạt DCB với những kích cỡ khác nhau từ 100 – 900 micromet sẽ gây ra hiện tượng tắc động mạch nuôi khối u.
Các hạt DCB kích thước nhỏ gây tắc vi tuần hoàn khối u và những hạt DCB lớn hơn gây tắc tiểu động mạch và những nhánh động mạch nhỏ nuôi u gây hiện tượng thiếu máu u nặng nề, hậu quả khối u bị bỏ đói và chết. Tính ưu việt của hạt vi cầu có tác dụng làm giảm số lần điều trị nhắc lại, giảm số lần nhập viện, giảm ngày nằm điều trị, hạn chế tác dụng phụ do hóa chất chống ung thư gây ra. Người bệnh sau can thiệp bằng phương pháp này có thời gian nằm viện trung bình 1 tuần, còn thực hiện bằng phương pháp hóa tắc mạch truyền thống do tác dụng phụ của thuốc nên thời gian nằm viện sẽ phải kéo dài hơn, nguy cơ tổn thương đến các nhu mô gan lành cũng cao hơn.
Tuy nhiên, hiệu quả của phương pháp này còn phụ thuộc vào sự chỉ định phù hợp đối với từng ca bệnh cụ thể; không phải trường hợp nào cũng có thể áp dụng tốt phương pháp điều trị này. Cũng như hóa tắc mạch truyền thống, phương pháp này được chỉ định cho các trường hợp UTBMTBG không còn chỉ định phẫu thuật, khối u gan tăng sinh mạch với chức năng gan còn tương đối khá và không có các chống chỉ định đặc biệt.
Xem thêm thông tin tại đây: http://benhvienungbuouhungviet.vn/tim-hieu-benh-ung-thu/ung-thu-gan.aspx
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét